Cúc Tana - sự trong sáng và thuần khiết

Hình ảnh
Cúc Tana là một loại cây thân thảo như đa phần những loại cúc khác. Với thân hình mỏng manh, mang mùi hương dịu nhẹ, cảm giác sắc hương quyện lại trong không gian nhỏ xinh của quán cafe hay một shop nhỏ đem lại sự dễ chịu thoải mái và nhẹ nhàng. Cúc Tana nở rộ vào mùa thu, từng bông hoa trắng muốt với nhụy vàng xanh, nhưng sức cuốn hút của loài Cúc Tana này là không thể chối từ. Sức hút mãnh liệt của loài hoa này giống như sự thuần khiết và trong sáng của tâm hồn giản đơn. 1. Nguồn gốc hoa cúc Tana 2. Ý nghĩa cúc Tana. 3. Hình ảnh cúc Tana 4. Chăm sóc cúc Tana Nguồn gốc của những bông hoa cúc Tana bé xinh Có nguồn gốc từ Hà Lan, được nhập khẩu vào các nước khác. Hiện nay ở Việt Nam cũng đã trồng được giống cúc này, với dộ bền cao, màu sắc và hình dáng giữ được nguyên bản. Ý nghĩa cúc Tana Với hương thơm tựa hương mật ong, những điều gì lôi cuốn nhất của cúc Tana nằm ở mùi hương và sự nhẹ nhàng của loài hoa ấy. Ý nghĩa của hoa Cúc Tana trong tình bạn: Cúc Tana mang lờ

Ý nghĩa và truyền thuyết về hoa thược dược (Dahlia)

Hoa Thược Dược - DAHLIA
Họ : Astheraceae
Có nguồn gốc từ Mễ tây cơ (Mexique ).
Thuộc giống sống lâu với những nơi có khí hậu ấm áp, những vùng khí hậu bốn mùa thì người ta đào củ rễ lên vào cuối thu, rửa sạch và cất vào một nơi thoáng mát không có ánh sáng mặt trời. Rễ của thược được có hình dạng tròn, dính chùm, mỗi củ cho ra một nhánh cây. Thược được rất đa dạng, vô số màu sắc nhưng tuyệt nhiên không bao giờ có màu xanh!
Sự hiện diện của Thược dược màu đen( thật ra đó là màu đỏ rất sậm ) vào năm 1842 đã gây ra bao nhiêu là danh tiếng , đến nỗi Nữ hoàng của Anh quốc , Victoria, bà đã coi như Thược dược đen là hoa của "nửa mùa tang " ( hoặc còn được gọi là mùa tang của vua Albert , phu quân của Bà ! ).
Hoa thược được bắt đầu cho hoa từ đầu tháng bảy đến tận cuối mùa thu, hoa chưa tàn thì các nụ mới đã mọc đầy, không ngừng nghĩ ngơi như các loài hoa khác, vì thế người ta coi Thược dược là ý nghĩa của sự biết ơn ...
Là một giống thân cây rỗng, cao từ 30cm tới 2m.






Có bốn loại thược dược chính thức:
Thược dược xương rồng: cánh hoa cuộn tròn, dài ống và chỉa ra từng cánh nhọn, hoa to rất đẹp.
Thược dược tàn ong : Đây là ngôi sao của việc tạo thành những bó hoa tuyệt đẹp, hoa dạng tròn rất đều đặn, cánh hoa tạo thành hình những lỗ tàn ong.
Thược dược trang trí : dạng hoa rất thường thấy có đường kính từ 20 đến 30cm
Thược dược búp tròn: Loại này có những cánh hoa uốn cong từ nhuỵ tới đài hoa, tạo ra dạng hình như một trái banh, cao từ 60cm đến 1m
Thược được thích đất ẩm ướt, giàu phân bón nhưng tuyệt đối kỵ dầm chân lâu trong nước đọng, vì rể rất dễ bị hư rữa.

Có tên gọi là Dalhia, để tưởng nhớ tới nhà thực vật học Thuỵ điển Andreas Dahl ( học trò của Carl von Linné ), ông đã đưa củ rể Thược dược vào Châu âu vào năm 1788 như một loại thức ăn thời bấy giờ theo phong tục của người Aztèque ( Bộ lạc rất xưa của người Mễ tây cơ ! )! Nói đến đây thì ta nên nhớ là theo phong tục của người Aztèque, họ coi Thược dược là một loại hoa kỳ bí, họ đã dùng nó chế biến ra một loại kỳ dược giúp họ giữ mối quan hệ với thế giới siêu phàm...
Ý nghĩa:
Thược dược đỏ : Tình yêu của người là hạnh phúc của tôi.
Thược dược vàng: Trái tim tôi tràn đầy hạnh phúc.
Thược dược nhiều màu sắc ( panaché ): Tôi chỉ nghĩ về người...
Thược dược tàn ong
Thược dược xương rồng
Truyền thuyết Hoa Thược Dược
Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là "hoa vương", thược dược được coi là "hoa tướng". Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.

Tuy chỉ là "hoa tướng" nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi nó là "mộc thược dược". Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.


Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.


Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ này luộc chín phơi khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.



Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.

Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.

Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.


Hoa Đà đi vào và tự nhủ: "Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?".

Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại chuyện.

Bà nói: "Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức". Hoa Đà bảo: "Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?".


Bà vợ nói: "Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì sao?". Nhưng danh y gạt đi: "Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì còn thử rễ làm gì?". Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.

Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: "Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một cây thuốc quý".

Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ "dược" thành bạch thược dược.

Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại, nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc, cường tuyến giáp...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cúc Tana - sự trong sáng và thuần khiết

Ý nghĩa hoa Poppy (hoa anh túc)- Thông điệp của hoa

Sự tích hoa Huệ Tây